Các phiên bản ISU-152

ISU-152

Phiên bản đầu tiên, được phát triển vào năm 1943. Tên của phiên bản này là "Kế hoạch 241" (Объект 241). Nó được trang bị một khẩu pháo ML-20S (МЛ-20С) 152,4 ly với nòng súng dài hơn 4,2 mét (27,9 calibre) và cơ số đạn 21 viên gồm cả hai loại: đạn xuyên giáp và đạn nổ. Tầm bắn tối đa của khẩu pháo là 6.200 mét. Loại đạn xuyên giáp, nặng 48,78 kg có sơ tốc đầu nòng 600 m/giây và có thể xuyên tối đa 125 ly giáp thép cán đồng nhất dựng vuông góc với mặt đất ở khoảng cách 500 mét.

So với SU-152, ISU-152 có một số sửa đổi đối với pháo chính (pháo phiên bản mới hơn), vỏ giáp (giáp của ISU-152 dày hơn đáng kể), số lượng cửa sập trên thân xe (dựa theo thân xe tăng IS-1, IS-2, IS-2 mẫu 1944). Giáp bảo vệ pháo trở nền dày hơn và dung tích khoang chứa nhiên liệu lớn hơn. Cho đến tháng 5 năm 1944, pháo chính của ISU-152 là loại 152,4 ly mẫu 1937 (ML-20). Tốc độ bắn của ISU-152 là 2-3 viên/phút. Phiên bản cải tiến sớm nhất có 3 cửa sập trên nóc thân xe và một cửa sập thoát hiểm bọc giáp ở dưới chỗ ngồi của lái xe. Về sau một cửa sập thứ tư hình tròn được lắp đặt bên phải nóc thân xe, nằm ở kế bên một cửa sập hình chữ nhật ở bên trái. Các phiên bản ISU-152 về sau sử dụng các loại pháo mới hơn với nòng dài hơn - có thể tới 4,9 mét (32,3 calibre) và có tầm bắn tối đa lên tới 13 nghìn mét.

ISU-152-2

Tập tin:ISU-152-2 (initial variant).tifPhiên bản đầu tiên của ISU-152-2 mang các tên như ISU-152BM hay ISU-152BM-1 hay ISU-152-1. Hình chụp tại sân của Nhà máy số 100, tháng 4 năm 1944.Tập tin:ISU-152-2 (final variant).tifPhiên bản thứ hai của ISU-152-2, hình chụp tại sân Nhà máy số 100, tháng 8 năm 1944.

Phiên bản nâng cấp, phát triển vào năm 1944. Trong một nỗ lực nhằm cải thiện hỏa lực của ISU-152 nhằm đối phó với những kiểu xe tăng hạng siêu nặng mà Đức có thể tung ra trong tương lai, tháng 4 năm 1944, một phiên bản mang tên ISU-152BM (ИСУ-152БМ) (ISU-152BM) - một số tài liệu gọi là ISU-152BM-1 hay ISU-152-1 được phát triển. Chữ "BM" ("БМ") là viết tắt của "Большой Мощности", có nghĩa là "sức mạnh lớn". Tên hiệu của ISU-152BM là "Kế hoạch 246" (Объект 246). ISU-152BM sử dụng động cơ, hệ thống truyền động, bánh dẫn động và các thiết bị điện tử giống như của ISU-122.

Mục đích chính của ISU-152BM là nhằm đối đầu với các pháo tự hành chống tăng hạng nặng có vỏ giáp chắc chắn của phát xít Đức như Elefant và Jagdpanzer VI Jagdtiger. Do vậy, nó được trang bị pháo chính là khẩu BL-8 (БЛ-8) 152,4 ly nòng dài với tổng chiều dài 8 mét (tỷ lệ độ dài nòng là 46 calibre); đây là khẩu pháo mạnh hơn nhiều so với ISU-152 nguyên bản. Nó có tầm bắn tối đa là 18.500 mét. ISU-152BM có cơ số đạn 21 viên, với loại đạn xuyên giáp nặng 48,8 kg và có sơ tốc đầu nòng 850 m/giây. Với khẩu pháo nòng dài như vậy, ISU-152-2 thực sự là một khẩu pháo tự hành chống tăng chứ không còn là pháo tự hành đa năng như phiên bản đầu. Khẩu BL-8 có sức xuyên giáp cực mạnh theo tiêu chuẩn thời bấy giờ, khi dùng đạn xuyên giáp động năng, nó có thể bắn xuyên lớp thép dày 330mm đặt thẳng đứng ở cự ly 500 mét, hoặc lớp thép dày 203mm ở cự ly 2.000 mét. Với khả năng này, ISU-152-2 có thể bắn xuyên giáp trước của Tiger II (loại xe tăng giáp dày nhất của Đức) ở cự ly 1.500 tới 2.200 mét.

Trong quá trình kiểm tra các kết quả ISU-152BM tỏ ra không đạt yêu cầu, nguyên nhân là vì tổ lái gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng, hệ thống hãm giật đầu nòng không đáng tin cậy, chiều dài nòng quá cỡ khiến pháo trở nên kém linh hoạt. Vào tháng 8 năm 1944, khẩu BL-8 được thay thế bằng khẩu BL-10 (БЛ-10) cùng cỡ nòng, với uy lực giống như cũ nhưng có những cải tiến như hệ thống hãm đầu nòng và khóa nòng kiểu mới. Phiên bản này mang tên ISU-152-2 (ИСУ-152-2) (ISU-152-2) và tên hiệu là "kế hoạch 247" (Объект 247). Tuy nhiên các kết quả kiểm tra cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề nên sau đó ISU-152-2 đã trải qua một quá trình cải tiến sâu rộng hơn để khắc phục những vấn đề này. Tuy nhiên, do chiến tranh đã kết thúc nên nó không bao giờ được đưa vào sản xuất.

Hiện nay phiên bản ISU-152 này được trưng bày ở Bảo tàng xe tăng Kubinka.

ISU-152 mẫu 1945

ISU-152 mẫu 1945

Một phiên bản thử nghiệm khác cũng được phát triển vào năm 1945. Trong khi ISU-152-BM tập trung vào cải tiến hỏa lực thì ISU-152 mẫu 1945 (ИСУ-152 обр. 1945 г.) tập trung vào tăng cường vỏ giáp.

ISU-152 mẫu 1945 tích hợp những đặc điểm của các loại xe tăng IS-2 và IS-3. Chiều cao của pháo tự hành giảm xuống còn 2,24 mét nhưng chiều rộng được tăng lên để đảm bảo không gian. Tên hiệu của phiên bản này là "Kế hoạch 704" (Объект 704). Pháo chính của "kế hoạch 104" là loại ML-20SM mẫu 1944 (МЛ-20СМ обр. 1944 г.) cỡ nòng 152,4 ly, với chiều dài súng là 4,5 mét (29,6 calibre) và không có hệ thống hãm đầu nòng, điều này giúp tăng cường hỏa lực của pháo thêm chút ít. Tầm bắn tối đa của ISU-152 mẫu 1945 là 13 nghìn mét. Loại pháo tự hành này mang một cơ số đạn là 20 viên, bao gồm cả hai loại đạn là đạn xuyên giáp và đạn nổ. Loại đạn xuyên giáp cân nặng 48,78 kg và có sơ tốc đầu nòng là 655 m/giây. Tốc độ bắn chừng 2-3 viên/phút. ISU-152 mẫu 1945 có 4 cửa sập trên nóc thân xe và 1 cửa sập thoát hiểm bọc giáp ở phía dưới thân, phía sau chỗ ngồi của người lái. Nó mang hai khoang nhiên liệu gắn phía ngoài pháo (mỗi khoang 90 lít) và tách biệt hoàn toàn với khoang nhiên liệu bên trong. Vũ khí phụ của pháo tự hành là 2 khẩu đại liên DShK 12,7 x 108 ly, một dùng để phòng không và một đồng trục quay với pháo chính.

Vỏ giáp của ISU-152 mẫu 1945 được làm dày hơn với góc nghiêng lớn hơn. Giáp trước của xe dày 120mm nghiêng 50 độ, đạt độ dày tương đương 210mm thép đặt thẳng đứng. Vùng khiên chắn quanh nòng pháo thì dày tới 320mm và được làm cong hình bán cầu (hình dạng này làm đạn xuyên giáp của địch bị trượt văng ra). ISU-152 mẫu 1945 là loại pháo tự hành có lớp vỏ giáp chắc chắn nhất của Liên Xô trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại[5]. Tuy nhiên, độ nghiêng quá lớn của thân xe cộng với độ giật lùi quá mạnh của pháo chính (do thiếu bộ phận hãm tốc đầu nòng) khiến cho việc tác chiến của tổ lái trở nên quá phức tạp, đây là nguyên nhân chính khiến ISU-152 mẫu 1945 không được đưa vào sản xuất. Các kỹ sư Liên Xô có thể khắc phục những vấn đề này, nhưng cũng như ISU-152-2, do chiến tranh đã kết thúc nên dự án bị ngừng lại.

Hiện nay phiên bản này được trưng bày tại Bảo tàng xe tăng Kubinka.[6][7]

ISU-152K

Một chiếc ISU-152K được trưng bày ở Công viên Thắng lợi, Moskva, Nga

Một phiên bản hiện đại hóa của ISU-152 đời đầu được phát triển vào năm 1953. Nó sử dụng động cơ mới của T-54 với một hệ thống làm mát và hệ thống làm nóng. Dung tích của khoang nhiên liệu bên trong xe tăng lên đến 920 lít, khiến tầm tác chiến của pháo tự hành tăng thêm 500 cây số trên đường nhựa. Một khoang nhiên liệu nằm ở khoang của tổ lái bị dỡ bỏ, khoảng trống này giúp cơ số đạn mang được tăng lên 30 viên. Tầm bắn tối đa của pháo là 13 nghìn mét. ISU-152K có một vòm mới dành cho khoang chỉ huy và trang bị thiết bị ngắm mới. Tên hiệu của ISU-152K là "Kế hoạch 241K" (Объект 241К). Bánh xe dẫn động tích hợp nhiều đặc điểm cấu tạo của xe tăng hạng nặng T-10. Lá chắn của pháo có thêm giáp trụ bảo vệ chỗ ngắm bắn. Một số chiếc ISU-152K có thêm một lớp giáp 15 ly hàn vào phía trên lớp giáp 60 ly bao phủ lá chắn. Đồng thời, một vài chiếc trong số chúng có thạm một lớp giáp hàn vào phần trên nơi gắn nòng pháo. Việc hiện đại hóa ISU-152 được thực thi tại Nhà máy xe tăng Kirov Leningrad.[2]

ISU-152M

Phiên bản cuối cùng của dòng ISU-152, được phát triển vào năm 1959 tại Nhà máy Chelyabinsk Kirovsk. Quá trình hiện đại hóa được tiến hành song song với chương trình IS-2M và vì vậy ISU-152M tích hợp nhiều đặc điểm của IS-2M. Tên hiệu của ISU-152M là"kế hoạch 241M" (Объект 241М). Việc hiện đại hóa ISU-152M bao gồm việc trang bị thêm thiết bị nhìn đêm, tăng cơ số đạn cho khẩu đại liên 12,7 ly - lần này là loại đại liên cải tiến DShKM, và nâng cấp các máy móc tự động bên trong pháo. Nó có vòm chỉ huy và thiết bị ngắm giống như ISU-152K và cũng có dung tích khoang nhiên liệu chính bên trong pháo là 920 lít, tầm tác chiến tăng thêm 500 cây số trên đường nhựa và cơ số đạn tăng lên 30 viên do việc loại bỏ một khoang nhiên liệu phụ nằm ở khoang của tổ lái. Tầm bắn của pháo tự hành là 13 nghìn mét. Bộ phận bảo vệ thiết bị ngắm được tích hợp và giáp của phần trên nơi gắn nòng pháo được tăng cường bởi một tấm giáp dày hơn. The ISU-152M cũng dùng loại động cơ V-54K nhưng không có thiết bị làm mát.[8]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: ISU-152 http://books.google.com/books?id=ZjEIa4hcqE4C&pg=P... http://www.aviarmor.net/TWW2/tanks/ussr/isu-152.ht... http://www.aviarmor.net/TWW2/tanks/ussr/isu-152_19... http://bronetehnika.narod.ru/su152/su152.html http://mk-armour.narod.ru/1996/03/ http://www.war-history.ru/gallery/histsov/EXB_TANK... http://armor.kiev.ua/Tanks/WWII/is3/is3_1.php http://armor.kiev.ua/Tanks/WWII/isu152/ http://armor.kiev.ua/Tanks/WWII/isu152/1/ http://armor.kiev.ua/Tanks/WWII/isu152/isu152bm_2....